Nông nghiệp Vĩnh Long

 sgdnsvl.snn@gmail.com  02703 880 191
 
Giải pháp tiềm năng thay thế thuốc kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản
Thứ sáu, Ngày 4 Tháng 8 Năm 2023
373 Lượt xem
Trong một hội thảo về nâng cao nhận thức và chia sẻ kinh nghiệm trong việc sử dụng kháng sinh được Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc (FAO) và Cơ quan hợp tác phát triển Nauy (Norad) thực hiện đã vạch ra được các giải pháp khả thi nhằm thay thế thuốc kháng sinh trong bối cảnh người nuôi lạm dụng kháng sinh quá mức không những gây ra nhiều hệ lụy đến sức khỏe động vật thủy sản mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe con người.

 

Các phương pháp thay thế để giảm việc sử dụng kháng sinh trong NTTS (Nguồn: Goodness et al, (2023)

Nhìn nhận chung về việc sử dụng kháng sinh

Mật độ nuôi gia tăng, môi trường quản lý kém là nguyên nhân chính dẫn đến vấn đề bùng phát dịch bệnh trong ngành nuôi trồng thủy sản. Thông thường, người dân luôn chủ quan trong khâu quản lý chất lượng ao nuôi đến khi bệnh dịch bùng phát mới bắt đầu hoang mang tìm cách xử lý. Một trong những cách phổ biến mà người dân thường sử dụng đó là sử dụng thuốc kháng sinh. Trong đó, một số loại thuốc được sử dụng phổ biến, phải kể đến như: Oxytetracycline (tetracycline), tetracycline, flumequine, sulfadimethoxine (sulfonamides), axit oxolinic, sarafloxacin, amoxicillin (beta-lactam), erythromycin (macrolides), trimethoprim (diaminopyrimidine) và florfenicol (amphenicol), enrofloxacin (quinolones).

Việc lạm dụng quá nhiều kháng sinh, gây ra đột biến DNA của vi khuẩn và thu nhận gen ngang, dẫn đến sự tồn tại và thiết lập hệ thống vô khuẩn kháng lại các loại kháng sinh vừa kể trên. Bên cạnh đó, kháng sinh dư thừa trên các động vật thủy sản còn gây ra nhiều tác hại đối với sức khỏe con người như làm giảm sự nhạy cảm của vi sinh dẫn đường ruột, biến những vi khuẩn có lợi thành vi khuẩn gây hại hay tăng khả năng kháng thuốc của vi khuẩn.

Những giải pháp thay thế cho thuốc kháng sinh

Kết quả hội thảo đã vạch ra một số giải pháp hữu hiệu thay thế cho việc sử dụng thuốc kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản bao gồm: Vaccine, bacteriophage, quorum quenching, bacteriocins, chế phẩm sinh học, kháng thể lòng đỏ trứng gà (IgY), sử dụng thảo dược và sử dụng nguồn con giống sạch bệnh.

Vaccine

Vaccine là chế phẩm từ các vi sinh vật gây bệnh, ví dụ như vi khuẩn, vi rút và các chất chuyển hóa của chúng, được làm giảm độc lực, bất hoạt hoặc biến đổi gen một cách nhân tạo để ngăn ngừa các bệnh truyền nhiễm. Các hợp chất này được công nhận là công cụ quan trọng để phòng ngừa và kiểm soát bệnh trên cá và được coi là một con đường thiết yếu để giảm việc sử dụng kháng sinh trong ngành nuôi trồng thủy sản. Trong những năm gần đây, một số vaccine acid nucleic đã được phát triển để sử dụng trong nuôi trồng thủy sản và dường như tạo ra khả năng miễn dịch tế bào và dịch thể mạnh mẽ. Chúng bao gồm các kháng nguyên mã hóa DNA hoặc RNA tương đối dễ sản xuất và an toàn để quản lý.

Tuy nhiên, vaccine chỉ có tác dụng trên các động vật bậc cao, như cá, lưỡng cư. Các loài thủy sản nuôi không có xương sống do không có hệ miễn dịch đặc hiệu nên không thể sử dụng vaccine như một chiến lược phòng bệnh.

Bacteriophages (thực thể khuẩn)

Bacteriophages hoặc thể thực khuẩn là một dạng virus ký sinh trên vi khuẩn, xâm nhập tế bào vi khuẩn và làm gián đoạn quá trình trao đổi chất của vi khuẩn và gây ra sự ly giải (hoặc tiêu diệt) vi khuẩn. Thể thực khuẩn là vi sinh vật phong phú nhất trên toàn thế giới, đặc biệt là trong môi trường biển và nước ngọt, cả ở gần bề mặt và trong môi trường đáy sâu. Liệu pháp thể thực khuẩn đã được sử dụng thành công để kiểm soát bệnh do vi khuẩn ở động vật thủy sinh, đặc biệt là khi sử dụng kết hợp nhiều loại thể thực khuẩn. Có nhiều nghiên cứu về sử dụng thể thực khuẩn để chống lại vi khuẩn thuộc chi Vibrionaceae, là chi vi khuẩn có nhiều trong môi trường nước và là tác nhân gây bệnh động vật thủy sinh. Thể thực khuẩn có thể được sử dụng để kiểm soát các vi khuẩn như Vibrio harveyiV. parahaemolyticusV. anguillarumV. alginolyticus và V. splendus, những vi khuẩn gây bệnh trên động vật thân mềm, giáp xác, da gai và cá.

Tuy nhiên, tính đặc hiệu của thể thực khuẩn cũng rất cao. Có nghĩa là nếu muốn tiêu diệt một loài vi khuẩn nào đó thì phải tìm đúng loại thể thực khuẩn tác dụng lên loài vi khuẩn này. Trong khi các dịch bệnh xuất hiện trong nuôi trồng thủy sản thường không phải do đơn thuần loài gây ra. Điều này làm hạn chế sự phổ biến của thể thực khuẩn. Thêm nữa, do bản thân chúng là virus, nên nhiều người quan ngại về tính an toàn của chúng đối với con người.

Quorum quenching (QQ)

Quorum quenching (QQ) đề cập đến tất cả các quá trình gây nhiễu quorum sensing (QS). Quorum sensing là khả năng của vi khuẩn theo dõi mật độ của chúng và điều chỉnh biểu hiện gen. Ví dụ, khi chúng nhận thấy mật độ của chúng đạt đến ngưỡng thích hợp, thì chúng sẽ tạo ra tín hiệu để đồng loạt tiết ra độc tố, gấp nhiều lần so với khi mật độ thấp. Nhiều loài vi khuẩn có thể sử dụng các tín hiệu quorum sensing để phối hợp và đồng bộ hóa các hành vi trong các môi trường khác nhau, bao gồm các tương tác giữa vi khuẩn và vi khuẩn và vật chủ-vi khuẩn. Quorum quenching được hiểu là quá trình ngăn cản quorum sensing diễn ra, bao gồm các hiện tượng và cơ chế rất đa dạng, và các tác nhân phân tử của QQ cũng rất đa dạng về bản chất, tức là các enzym, hợp chất hóa học, phương thức hoạt động. Tất cả các bước chính của quá trình QS, bao gồm tổng hợp, khuếch tán, tích lũy và nhận biết các tín hiệu QS, đều có thể bị ảnh hưởng. Sự gián đoạn QS là một lĩnh vực đang được phát triển và sử dụng để kiểm soát sinh học các bệnh do vi khuẩn – nó cũng đang được thử nghiệm trong nuôi trồng thủy sản.

Bacteriocins

Bacteriocins, các hợp chất hoạt tính sinh học được sản xuất bởi vi khuẩn, đã được đề xuất như một chiến lược thay thế đầy hứa hẹn và bền vững cho việc sử dụng kháng sinh. Theo các nhà nghiên cứu, bacteriocins có đặc tính kháng khuẩn do khả năng ức chế hoặc tiêu diệt các vi sinh vật có quan hệ họ hàng gần hoặc xa. Bacteriocins được tạo ra bởi một quần thể vi khuẩn tạo môi trường thuận lợi cho chúng phát triển và cạnh tranh với các vi khuẩn khác. Lợi ích của bacteriocin bao gồm thân thiện với môi trường, có thể phân hủy sinh học và không gây chết cho vật chủ hoặc môi trường và thúc đẩy vi khuẩn có lợi.

Các loại chế phẩm sinh học (probiotic, prebiotics, synbiotic, parabiotic và postbiotics)

Probiotic là loại phổ biến nhất và có sẵn trên thị trường để ảnh hưởng tích cực đến hệ vi sinh vật. Chúng là những vi sinh vật sống, không gây bệnh được sử dụng để cải thiện sự cân bằng vi sinh vật, đặc biệt là trong đường tiêu hóa. Prebiotics là những thành phần thực phẩm không phải sinh vật sống, thường là oligosacarit, không thể tiêu hóa được bởi vật chủ, nhưng có thể tiêu hóa được đối với các quần thể vi khuẩn cụ thể cư trú trong ruột và do đó đóng vai trò là chất nền chọn lọc cho quá trình lên men của vi khuẩn.

 Một số nghiên cứu đã chỉ ra tầm quan trọng của việc duy trì hệ vi sinh vật đường ruột khỏe mạnh và ổn định ở động vật thủy sản để giảm nguy cơ mắc bệnh. Một hệ vi sinh vật bị ảnh hưởng không tốt thường có liên quan đến tình trạng bệnh lý và được một số nhà khoa học coi là dấu ấn sinh học để phát hiện vấn đề bệnh lý.

Kháng thể lòng đỏ trứng (IgY)

Kháng thể lòng đỏ trứng gà (IgY) là một kháng thể hữu ích để tạo miễn dịch thụ động do thực tế là mức độ cao của IgY đặc hiệu với mầm bệnh được tạo ra sau khi tiêm chủng cho gà và các phương pháp chiết xuất IgY đơn giản đã được phát triển cho lòng đỏ trứng.

Kháng thể lòng đỏ trứng đã được chứng minh là có giá trị điều trị hiệu quả trong việc kiểm soát các mầm bệnh vi khuẩn và vi rút khác nhau ở cá và các động vật thủy sinh khác. IgY đã được sử dụng để điều trị bệnh đốm trắng (WSD) ảnh hưởng đến tôm và tôm càng; nhiễm Vibrio harveyi trên tôm thẻ chân trắng Ấn Độ (Fenneropenaeus indicus); Vibrio anguillarum và Yersinia ruckeri trên cá hồi vân (Oncorhynchus mykiss); Vibrio splendens ở hải sâm (Apostichopus japonicas); Aeromonas hydrophila ở cá mè đa bội (Carassius auratus gibelio) và cá tráp Vũ Xương (Megalobrama amblycephala); nhiễm khuẩn salmonicida ở cá chép koi (Cyprinus carpio koi); và bệnh Edwardsiellosis ở lươn Nhật Bản (Anguilla japonica) và bào ngư nhỏ (Haliotis diversicolor supertexta).

Thảo dược

Trong những năm gần đây, các loại thảo dược và các dẫn xuất của chúng đã nhận được sự quan tâm đáng kể như là những lựa chọn thay thế cho thuốc kháng sinh. Có sự quan tâm đáng kể trong việc sử dụng thảo dược do dễ dàng chuẩn bị, chi phí thấp, nguy cơ tác dụng phụ thấp và tác động môi trường thấp hơn. Tuy nhiên, thảo dược lại khó dùng trong việc ly trích các thành phần cần thiết, cũng như là nguồn cung thảo dược không thật sự ổn định nên khó có thể phát triển bền vững.

Thảo dược bao gồm các loại thảo mộc, gia vị, rong biển, các hợp chất chiết xuất từ ​​thảo dược, các sản phẩm thương mại có nguồn gốc từ thực vật và các thành phần hoạt tính của chúng bao gồm các chất chuyển hóa thứ cấp (phenol, tinh dầu, sắc tố, alkaloid, terpenoit…)

Tóm lại, việc lựa chọn các giải pháp thay thế kháng sinh có tiềm năng lớn. Một số lựa chọn đã cho thấy hiệu quả mang lại kết quả đáng kể, tuy nhiên một số giải pháp vẫn còn đang trong quá trình thử nghiệm. Do vậy, biện pháp hiệu quả để phòng ngừa dịch bệnh bùng phát ở động vật nuôi thủy sản đó là chú trọng công tác phòng bệnh hơn chữa bệnh.  

Trần Anh Khoa - TTDVKTNN Vĩnh Long

(Nguồn: Bài dịch tạp chí Thefishsite – Hoàng Tấn Phát)

Các tin cùng chuyên mục:
Hiển thị kết quả 1-10 (của 16)
Trang:1 - 2Trang đầu « Lùi · Tới » Trang cuối