Nông nghiệp Vĩnh Long

 sgdnsvl.snn@gmail.com  02703 880 191
 
Biện pháp kỹ thuật tránh stress và chăm sóc tốt thủy sản nuôi trong mùa khô
Thứ hai, Ngày 17 Tháng 6 Năm 2024
408 Lượt xem
Hiện nay đang là giai đoạn đỉnh điểm mùa khô, nhiệt độ tăng cao có ngày lên đến 36 - 38°C, thời tiết rất cực đoan, nhiệt độ nước biến động rất lớn giữa đêm và ngày (22 – 32°C), các vật nuôi rất dễ bị sốc nhiệt, nhiễm bệnh. Đặc biệt ở động vật thủy sản (ĐVTS) nuôi, khi thời tiết khắc nghiệt cá, tôm dễ rơi vào trạng thái stress. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả về năng suất và chất lượng sản phẩm nên người nuôi cần áp dụng một số biện pháp kỹ thuật để tránh thiệt hại sản xuất.

Hình: Che màn giúp ao nuôi bớt nóng do tiếp xúc trực tiếp với ánh nắng. Ảnh: thietbiaotom.vn

1. Nguyên nhân gây stress (sốc)

Stress là trạng thái mệt mỏi căng thẳng khi vật nuôi phải đương đầu với những điều kiện sống khắc nghiệt như nhiệt độ nước tăng giảm bất thường, hàm lượng oxy giảm thấp, khí độc tăng cao và độ mặn thay đổi đột ngột.  Đây là trạng thái mất cân bằng nội mô của cơ thể, toàn bộ năng lượng của cơ thể ĐVTS đều được huy động sử dụng để vượt qua trạng thái stress, khiến chúng phải tiêu tốn rất nhiều năng lượng. Khi ĐVTS stress, trao đổi chất bị rối loạn dẫn đến: mất khoáng, giảm hấp thu dưỡng chất, bơi lội kém, giảm bắt mồi, lớn chậm, giảm sức đề kháng, dễ nhiễm bệnh. 

Khi thời tiết nắng nóng, cường độ chiếu sáng quá cao khiến nhiệt độ nước ao nuôi tăng, lúc đó tảo, vi khuẩn và các sinh vật khác tăng sinh khối cực đại dẫn đến chất lượng lượng nước có nhiều thay đổi tạo điều kiện thuận lợi sinh vật gây bệnh cho động vật thủy sản (ĐVTS) phát triển; sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe thủy sản nuôi, nguy cơ mắc bệnh và tỉ lệ hao hụt cao. Riêng với tôm nuôi, khi nhiệt độ tăng cao, khí hậu hoặc môi trường thay đổi khiến tôm lột xác bất thường, quá trình chuyển hóa canxi và phốt pho trong quá trình lột xác gặp khó khăn. Các triệu chứng như tôm gầy và mềm, thân mềm như sợi bún, cơ thể gầy yếu, di chuyển chậm chạp, sức sống kém, màu sắc cơ thể sẫm, hơi đỏ, mang có màu vàng hoặc trắng, râu cũng có màu đỏ và dạ dày trống rỗng. 

2. Mối quan hệ giữa các yếu tố Môi trường, mầm bệnh, chất lượng giống

Nhiệt độ nước trong ao nuôi tăng cao: Thời tiết nắng nóng, cường độ nắng cao khiến nhiệt độ nước ao nuôi tăng, tảo, vi khuẩn và các sinh vật khác sinh sản mạnh, thủy vực dễ bị phân tầng như thermocline, oxycline. Các vùng nước trong ao có xu hướng trở nên kém trong suốt, độ pH cao, thiếu oxy hòa tan và các vấn đề khác. 

Nước ao dễ phân tầng nhiệt độ: Trong thời điểm này, do nhiệt độ tầng trên cao hơn tầng dưới làm tăng trở lực của quá trình hòa trộn nước tầng trên và tầng dưới, hình thành “đường nhiệt”. Một khi thethermocline được hình thành, oxy ở lớp trên không thể trao đổi với lớp dưới và chất dinh dưỡng ở lớp dưới không thể được bổ sung cho lớp trên. Theo thời gian, một lượng lớn chất hữu cơ ở lớp đáy tích tụ và một loạt vi khuẩn hiếu khí sinh sản để hình thành quá trình lên men hiếu khí, tạo ra rất nhiều nhiệt. 

Thủy sản nuôi  ăn ít hoặc bỏ ăn: Nắng nóng nhiệt độ tăng cao, ĐVTS nuôi  thường dễ xuất hiện tình trạng ăn ít đi hoặc thậm chí là bỏ ăn do trong thời kỳ nhiệt độ cao là nhiệt độ đáy và mùi hôi tăng cao trong khi oxy hòa tan thấp khiến các bệnh về đường tiêu hóa dễ phát sinh. Riêng tôm, có một số lý do khiến lượng thức ăn ăn vào chậm, chẳng hạn như khó lột xác, lông mao dài, đáy nóng và có mùi hôi, lượng oxy hòa tan thấp, nhiễm các bệnh do vi khuẩn như viêm ruột và thối mang.

Bệnh là biểu hiện của trạng thái cơ thể cá bị xáo trộn do kết quả tác động qua lại giữa 3 nhân tố: cơ thể cá, tác nhân gây bệnh và môi trường sống. Khi môi trường sống có những thay đổi đột ngột (nhất là trong giai đoạn chuyển mùa), sẽ gây bất lợi cho tôm/cá, nhất là vào đầu mùa mưa, ĐVTS nuôi sẽ bị suy yếu, sức đề kháng giảm. Từ đó tác nhân gây bệnh có cơ hội phát triển, tấn công và gây bệnh cho vật nuôi. Khi bệnh xuất hiện, thủy sản nuôi sẽ bỏ ăn, chậm lớn và cuối cùng là chết, gây nhiều thiệt hại kinh tế cho người nuôi..Ngoài ra, nguồn nước nuôi còn bị nhiễm bẩn bởi chất thải từ các nhà máy, dầu xả các ghe tàu, thuốc bảo vệ thực vật (vụ lúa ĐX), và nước phèn đổ ra từ ruộng vào các tháng mùa khô cũng ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của ĐVTS nuôi.

  Nguyên nhân ĐVTS nuôi nhiễm bệnh thì có nhiều như do vật nuôi bị nhiễm khuẩn hoặc bị các loài ký sinh trùng giáp xác ký sinh và nấm gây hại; do chế độ dinh dưỡng cho ĐVTS nuôi không cân đối…. khi gặp chất lượng nước ao không tốt hoặc vùng nuôi bị ô nhiễm sẽ thuận lợi gây bệnh và lây lan thành dịch bệnh, đặc biệt là chất lượng giống thủy sản  không đảm bảo yêu cầu kỹ thuật theo qui định kèm theo người nuôi thả mật độ ương và nuôi quá cao nên bệnh thường xảy ra nhanh và lây lan trên diện rộng.

3. Biện pháp kỹ thuật chăm sóc tốt ĐVTS nuôi thời điểm giao mùa

a. Quản lý dịch bệnh để nâng cao hiệu quả, giảm rủi ro trong sản xuất

- Phải tuân thủ nguyên tắc " Phòng bệnh hơn trị bệnh" trong quản lý dịch bệnh:

+  Cải tạo ao thật kỹ trước khi thả giống, định kỳ diệt mầm bệnh trong ao và tẩy giun sán cho cá. Cần bổ sung Sorbitol và Vitamin C thường xuyên vào thức ăn để tăng cường sức đề kháng cho cá khi môi trường thay đổi.

+  Trong trường hợp ĐVTS nuôi bị bệnh, phải chẩn đoán đúng tác nhân gây bệnh để có biện pháp điều trị thích hợp, không được tùy tiện sử dụng kháng sinh và các hoá chất, nhất là những loại nằm trong danh mục cấm hoặc hạn chế sử dụng mà Nhà nước đã qui định. 

+  Định kỳ 10-15 ngày, để phòng bệnh cho vật nuôi và khử trùng nước ao, dùng vôi nông nghiệp hòa nước và tạt đều khắp ao với liều lượng 1,5-2kg/100m3 nước ao. Có thể dùng các loại chế phẩm sinh học hoặc Chlorin, thuốc tím…để xử lý và khử trùng nước ao nuôi.

- Tiêu diệt nguồn gốc gây bệnh:

+ Tiến hành kiểm dịch giống trước khi vận chuyển, dùng các biện pháp xử lý để tránh mang mầm bệnh từ nơi này sang nơi khác .

+ Sát trùng cơ thể cá: Mặc dù ao đã tẩy dọn kỹ, nhưng cá giống có thể mang mầm bệnh vào ao hồ, nên sau khi kiểm dịch, tùy theo kết quả mà chọn:

+ Tắm cá: CuSO4 5H2O (phèn xanh) 2-5ppm/ 5-15 phút; Muối ăn NaCl 3-5%/ 3-5 phút; Formalin 200-300 ppm/ 15-20 phút

- Tăng sức đề kháng của cơ thể ĐVTS nuôi:

+ Nên mua con giống để ương và nuôi có nguồn gốc bố mẹ rõ ràng, tốt nhất là nên sử dụng con giống đã được chọn lọc có chất lượng cao ở các Trung tâm giống thủy sản và các cơ sở ương có uy tín.

+ Định kỳ bổ sung Vitamin C để tăng sức đề kháng cho vật nuôi, nhất là vào thời điểm giao mùa.

b. Cải tiến kỹ thuật ương nuôi để vật nuôi có sức khỏe tốt

+ Không nên ương, nuôi mật độ quá dày;

+ Cho cá ăn đảm bảo chất và số lượng theo giai đoạn phát triển, lúc cá có dấu hiệu bệnh nên giảm lượng thức ăn; ứng dụng phương pháp cho ăn gián đoạn để giảm chất thải;

+ Quản lý chất lượng nước trong ao ương và nuôi thật tốt, tránh để xảy ra hiện tượng các yếu tố thủy lý hóa biến động lớn và ao nhiễm bẩn trong quá trình sản xuất;

+ Thường xuyên theo dõi hoạt động của vật nuôi để kịp thời xử lý trường hợp bất thường;

+ Sử dụng hóa chất và kháng sinh phải tuân thủ theo qui định, sử dụng kháng sinh điều trị các bệnh nhiễm khuẩn phải đúng theo hướng dẫn của chuyên môn kỹ thuật, tuyệt đối không được dùng các sản phẩm có chứa hoạt chất  nằm trong danh mục nhà nước cấm sử dụng trong quá trình nuôi với bất kỳ mục đích sử dụng nào..

+ Định kỳ 1 lần/tháng lấy mẫu thẩm tra các chỉ tiêu thuỷ lý, thuỷ hoá, mầm bệnh trong ao xử lý nước cấp và lấy mẫu tôm/cá (bệnh,yếu) để xét nghiệm tác nhân gây bệnh nhằm kịp thời xử lý.

c. Biện pháp hỗ trợ giảm stress cho ĐVTS nuôi vào mùa nắng nóng 

+ Ở nhiệt độ 28-34 độ C, ngoài trời càng nắng nóng nhiệt độ tăng ĐVTS nuôi sẽ giảm ăn nên cho vật nuôi ăn đúng khẩu phần phù hợp với quy trình, tránh cho ăn dư thừa, chỉ nên cho t ăn lượng thức ăn bằng 70 - 80% lượng thức ăn so với bình thường và tăng lượng thức ăn vào cữ ăn lúc trời mát.  

+ Sử dựng màn lưới đen, chống nắng căng phía trên mặt ao để hạn chế bức xạ của ánh sáng mặt trời, giảm tăng nhiệt nước ao, tránh gây sốc cho tôm. 

+ Với tôm nuôi, vào mùa nắng nóng, trời ít mưa, nước bốc hơi, rò rỉ làm ao cạn nước, độ mặn tăng và độ trong thấp, tôm dễ bị bệnh khó lột xác và chậm lớn. Cần bổ sung nước mát (ở tầng đáy) của ao lắng vào ao nuôi để duy trì độ sâu và giảm độ mặn nước ao. 

+ Tăng cường sục khí trong ao để hàm lượng ôxy được cung cấp đủ ở mọi tầng nước. Riêng tôm nuôi cần hạn chế dùng chài, vó đánh bắt kiểm tra vật nuôi vào ngày nắng nóng để hạn chế hiện tượng đục cơ trên tôm. Định kỳ xi - phông nền đáy ao nhằm giảm lượng mùn bã hữu cơ trong ao, hạn chế sự phát sinh các khí độc ảnh hưởng đến tôm. 

+ Dùng chế phẩm sinh học EM gốc định kỳ xử lý môi trường nước ao nuôi để hạn chế chất hữu cơ và khí độc ở đáy ao.  Đồng thời EM kết hợp với vitamin làm tăng vi sinh vật phù du trong nước làm tăng thức ăn cho tôm ức chế sự phát triển vi khuẩn có hại.  Ngoài ra, việc chế biến và sử dụng EM tỏi, chuối bổ sung vào thức ăn cho tôm/cá hàng ngày giúp tăng cường khả năng tiêu hóa và hấp thụ thức ăn, kích thích tăng trưởng. 

Người nuôi nên chủ động phòng ngừa tôm, cá bị stress cho ao nuôi của mình, lưu ý khi sử dụng các thực phẩm bổ sung cho vật nuôi cần xác minh rõ nguồn gốc, sử dụng đúng liều lượng cho phép để vật nuôi có thể hấp thụ tốt sinh trưởng nhanh, tránh các thất thoát xảy ra gây thiệt hại về tài chính./.

Nguồn: Bản tin NNNT

Các tin cùng chuyên mục:
Hiển thị kết quả 1-10 (của 16)
Trang:1 - 2Trang đầu « Lùi · Tới » Trang cuối