1. Đặc điểm sinh học
Cá linh ống (Cirrhinus jullieni) thuộc giống Cirrhinus, họ Cyprinidae, bộ cá Chép Cypriniformes là một loài cá có giá trị kinh tế nhưng sản lượng cá linh ngày càng giảm sút rõ rệt, cần phải có biện pháp để bảo vệ và tái tạo nguồn lợi.
Cá linh ngoài phân bố ở ĐBSCL Việt Nam, Campuchia, Lào, Thái Lan cá linh còn phân bố ở Inđônêxia và Malaysia. Cá linh là loài đặc hữu của sông Mekong, có mặt ở Đồng Bằng Sông Cửu Long cho đến Chiềng Không gần biên giới giữa Lào, Thái Lan và Myanma trên cả sông chính và chi lưu.
Mùa vụ sinh sản của cá linh từ tháng 5 – 7. Bãi đẻ của cá linh thường ở ngã ba sông, ven cồn, nơi nước chảy. Cá linh thành thục ở chiều dài 11 cm. Một cá linh cái có chiều dài 12,9-20 cm có thể đẻ 23.500-90.500 trứng. Trứng nở thành cá bột khoảng 13 giờ ở nhiệt độ 26,8 oC.
Hàng năm, bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 12 cá linh từ các đồng ruộng theo các kênh rạch đổ ra sông lớn (sông Tiền, sông Hậu) rồi ngược dòng lên thượng nguồn để sinh sống. Bắt đầu từ tháng 7 cá linh non (chiều dài từ 1,5-3,0 cm) theo dòng nước xuống địa phận Việt Nam theo các kênh rạch vào đồng ruộng để sinh sống. Đến tháng 11-12 cá linh từ đồng ruộng theo kênh rạch đổ ra sông lớn (sông Tiền, sông Hậu) rồi ngược dòng lên thượng nguồn trở về sông Tonle Sap . Cá linh ống trưởng thành có mình tròn, cỡ 5 - 8 cm, con lớn nhất dài 22 cm, nặng 160 g.
Các loài Cirrhinus chiếm ưu thế ở trung và hạ lưu sông Mekong là loài cá có tuổi đời ngắn, thích nghi tốt với điều kiện tự nhiên thay đổi hàng năm của sông Mekong. Cirrhinus đẻ trứng vào đầu mùa lũ, trứng và ấu trùng di chuyển theo dòng nước đến vùng ngập kiếm ăn và sinh trưởng. Khi bắt đầu mùa khô, chúng từ vùng ngập nước đang xuống, quay trở lại sông và bắt đầu cuộc di cư đi tìm nơi ẩn náu vực sâu trong lưu vực. Khi mùa lũ tiếp theo chúng thành thục và bắt đầu sinh sản.
Thức ăn tìm được trong dạ dày cá linh chủ yếu là mùn bã hữu cơ, phiêu sinh thực vật. Cá linh ống ngoài ăn phiêu sinh thực vật, vật chất hữu cơ thỉnh thoảng còn ăn sinh vật đáy và động vật không xương sống. Ngoài ra cá còn ăn thực vật thuỷ sinh, sinh vật đáy và phiêu sinh động vật.

Cá linh non
2. Chuẩn bị ao nuôi
- Tát cạn ao, sau đó tẩy dọn ao để tạo ra môi trường ao nuôi thuận lợi. Dùng vôi bột tẩy ao: 7-10 kg/100 m2 (tuỳ độ phèn của đáy ao mà tăng hay giảm lượng vôi cho phù hợp). Vôi có tác dụng tiêu diệt cá dữ, cá tạp, các đối tượng địch hại, ký sinh trùng, ngoài ra còn làm xốp đáy, tạo ra sự thoáng khí của đáy giúp cho vi sinh vật chuyển hóa đạm, lân hoạt động.
- Bón lót: làm tăng chất dinh dưỡng cho ao, gây thức ăn tự nhiên sẵn có trong ao. Bón lót trước khi thả cá 3-4 ngày, không bón quá sớm hoặc quá muộn. Bón phân chuồng 30-50 kg/100 m2.
- Lọc nước vào ao cẩn thận để tránh cá tạp và sinh vật hại cá vào ao. Mực nước 1,2-1,5 m.
- Thiết lập hệ thống sục khí để cung cấp thêm ô xy cho ao nuôi.
- Sau khi cho nước vào khoảng 3 ngày thấy nước có màu xanh đọt chuối là thả cá bột.
- Nên thả thêm trứng nước, 10 lon/1.000 m2.
3. Thả giống.
Mật độ thả 500-1.000 con/m2.
Chọn mua cá linh bột ở những cơ sở sản xuất giống có uy tính.
Nên vận chuyển cá lúc sáng sơm hoặc chiều mát.
Trước khi thả nên ngâm túi đựng cá dưới ao khoản 15 – 20 phút cho nhiệt độ bên trong và ngoài ao cân bằng nhau.
4. Chăm sóc quản lý.
Thức ăn chủ yếu của cá linh là phiêu sinh thực vật, vật chất hữu cơ thỉnh thoảng còn ăn sinh vật đáy và động vật không xương sống. Ngoài ra cá còn ăn thực vật thuỷ sinh thượng đẳng, sinh vật đáy và phiêu sinh động vật. Vì vậy Phải đảm bảo nước ao có chất lượng tốt, đủ dinh dưỡng cho cá. Tăng dần mực nước trong ao để mở rộng môi trường hoạt động của cá. Trong quá trình nuôi cần tạo nguồn thức ăn tự nhiên đầy đủ, chủ yếu là ổn định màu nước xanh đọt chuối của nước.
Để cá nhanh lớn, cho cá ăn thức ăn công nghiệp có độ đạm từ 30-40%.
Loại thức ăn và liều lượng cho ăn cho 100 m2 ao:

5. Thu hoạch
Sau khi ương 1 – 2 tháng cá đạt 500-1.000 con/kg có thể thu hoạch. Tỷ lệ sống bình quân 30 -50%. Năng xuất có thể đạt từ 0,3-0,5 kg/m2, hệ số chuyển hóa thức ăn (FCR) từ 1,5 – 2 tùy vào điều kiện nuôi.
Trần Anh Khoa-TTKN
(Nguồn: Tài liệu quy trình ương cá linh non, Trường Đại Học Đồng Tháp)